🌝 Tắc Động Mạch Chi Dưới

Dạng thứ tư thiệt hại của tĩnh mạch sâu là đặc trưng, bệnh lý phức tạp do trào ngược.. Phân loại CEAP. Điều quan trọng là giãn tĩnh mạch ở chi dưới, phân loại được tạo ra chỉ sau một thời gian dài quan sát những người bị bệnh tĩnh mạch, đặc trưng bởi triệu chứng chính của bệnh lý mãn tính ở chân. Panasonic MCCB - Cầu Dao Đóng Ngắt Mạch 2P 40A | BBW240SKY Các thiết bị đóng cắt trong mạch điện cụ thể là Aptomat hay cầu dao tự động (MCB) là các thiết bị đặc thù có nhiệm vụ đảm bảo đóng cắt nguồn điện một cách chính xác nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống điện 2. Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới: + Là tình trạng tổn thương viêm tắc tĩnh mạch chi dưới do cục tắc hay cục nghẽn.Thường gặp trong các trường hợp nằm bất động lâu ngày,sau mổ,sau đẻ,tổn thương tĩnh mạch do chấn thương hay viêm nhiễm,cơ địa máu tăng đông… Huyết khối gây tắc mạch cấp là một biến chứng hay gặp nhất của bệnh phình động mạch chi do bất kỳ nguyên nhân nào. Huyết khối thường xuất hiện sau nhiều đợt gây thuyên tắc ở các động mạch của cẳng chân (mà thường (15%) chưa có biểu hiện lâm sàng) và nó làm phá hủy giường mạch máu ở hạ lưu. Các nguyên nhân gây huyết khối tắc mạch cấp khác Tắc động mạch dưới cẳng chân và bàn chân, theo thứ tự tỷ lệ gặp của bệnh có thể bao gồm động mạch chày và động mạch mác chung, mạch bàn chân, và có khi những nhánh chẽ nhỏ. Triệu chứng phụ thuộc vào độ hẹp hoặc huyết khối, tắc đột ngột và độ rộng chỗ tắc, và tình trạng mạch gốc và bàng hệ. Bệnh động mạch chi dưới mạn tính Các biện pháp thăm dò chẩn đoán bệnh động mạch vành ĐIỆN TÂM ĐỒ TRONG BỆNH MẠCH VÀNH Các chuyển đạo điện tim giúp khảo sát tình trạng thiếu máu cục bộ các vùng cơ tim … Định nghĩa: Xơ cứng bì hệ thống (XCB) là một bệnh tự miễn dịch mạn tính, không rõ căn nguyên , đặc trưng về lâm … Tắc động mạch ngoại biên cấp tính được đặc trưng bởi đau nặng, cảm giác lạnh, dị cảm (hoặc gây tê), xanh xao, và mất mạch ở các chi bị ảnh hưởng. Điều trị bao gồm lấy bỏ huyết khối (catheter hoặc phẫu thuật), tiêu huyết khối, hoặc phẫu thuật bắc cầu. Phẫu thuật thành công cho người bệnh giả tắc đại tràng hiếm gặp. Bác sĩ thăm khám cho bệnh nhân sau phẫu thuật. Ảnh: TTXVN phát. Bệnh nhân nhân N.X.P (nam, 14 tuổi, ngụ tại tỉnh Bạc Liêu) nhập viện Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ ngày 3/4 với tình trạng mệt, khó SKĐS - Bệnh tắc nghẽn mạn tính động mạch chi dưới còn gọi là thiếu máu chân mạn tính. Bệnh gây mất chức năng đi đứng của bệnh nhân. Ngoài tổn thương ở chân, bệnh còn ảnh hưởng đến toàn thân, gây ra biến chứng hoại tử lan rộng ở bàn chân, tỉ lệ cắt cụt chi và tử vong vẫn còn cao. Kihij. Viêm tắc động mạch chi dưới là bệnh lý dễ bị bỏ qua do bệnh có triệu chứng không rõ ràng và thường được chẩn đoán nhầm với các bệnh lý về cơ xương khớp, bệnh do tuổi già. Bệnh viêm tắc động mạch chi dưới là tình trạng hẹp/tắc lòng động mạch chậu, đùi, khoeo, cẳng và bàn chân do xơ vữa động mạch hoặc viêm nội mạc động mạch, làm giảm dòng máu nuôi phần chi phía dưới vị trí tổn thương. Bệnh lý mạn tính có triệu chứng không điển hình nên thường được chẩn đoán nhầm với các bệnh lý về cơ xương khớp, bệnh do tuổi già. Bệnh lý này được phát hiện qua siêu âm, hình ảnh chụp mạch máu. Bệnh thường gặp ở người cao tuổi và những người có các yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa mỡ, ít vận động, béo phì… Dấu hiệu nhận biết Cần nghĩ đến viêm tắc động mạch chi dưới nếu bệnh nhân có các triệu chứng sau đau mỏi và co cứng bắp chân, đùi hoặc mông khi đi bộ, phải dừng lại, ngồi nghỉ một lúc mới có thể tiếp tục đi được. Hiện tượng đó lặp lại sau một khoảng cách đi bộ nhất định. Khoảng cách đó ngắn dần chứng tỏ bệnh đang tiến triển nặng lên; đau bàn chân, ngón chân liên tục, kể cả khi nghỉ ngơi. Bệnh nhân thường mất ngủ, mệt mỏi vì đau chân, da chân tái và lạnh. Giai đoạn nặng hơn sẽ bị loét và hoại tử các ngón chân, có thể cả bàn chân do thiếu máu nuôi dưỡng, kèm theo cảm giác đau liên tục, thuốc giảm đau hiệu quả không cao. Phần lớn người bệnh đến điều trị ở giai đoạn muộn do không có triệu chứng khi bệnh mới khởi đầu; hoặc nhầm với bệnh cơ xương khớp, đau thần kinh ngoại vi, do tuổi già... do đó việc điều trị bệnh thường được bắt đầu ở giai đoạn muộn với nhiều biến chứng nguy hiểm. Chẩn đoán và điều trị Nếu có triệu chứng như đã mô tả ở trên thì bệnh nhân cần đến các cơ sở y tế có chuyên khoa mạch máu để được chẩn đoán sớm và chính xác. Bác sĩ sẽ kiểm tra mạch đập ở các vị trí nếp bẹn, khoeo chân, mu chân và ống gót. Nếu không có mạch đập hoặc yếu hơn bình thường thì có thể nghĩ đến bệnh lý viêm tắc mạch. Bên cạnh đó, siêu âm mạch máu có thể biết rõ động mạch bị hẹp tắc ở đâu và mức độ như thế nào, đồng thời có thể cho biết mức độ thiếu máu chi dưới ra sao nhờ đo chênh lệch huyết áp giữa cổ chân và cánh tay. Ngoài ra, ở những bệnh viện có đầy đủ trang thiết bị y tế thì bệnh nhân có thể được chỉ định chụp mạch máu trên trên máy chụp kỹ thuật số DSA, chụp cắt lớp hệ động mạch chủ bụng chậu và toàn bộ chi dưới giúp xác định chính xác nhất vị trí động mạch bị tắc/hẹp. Với bệnh lý viêm tắc động mạch chi dưới, phương pháp điều trị tối ưu nhất, ít đau đớn cho bệnh nhân lớn tuổi là tái lưu thông động mạch bị tắc bằng phương pháp nong đặt stent động mạch chậu, đùi, khoeo… chi dưới qua da bằng ống thông. Dụng cụ can thiệp động mạch chi dưới là các dây dẫn, ống thông gắn bóng và stent, được đưa đến vị trí tổn thương qua một lỗ chọc kim ở động mạch thông gắn bóng được đưa vào vị trí hẹp/tắc của mạch để mở rộng lòng mạch. Tiếp theo, stent kim loại giá đỡ gắn trên một ống thông khác được đưa vào để mở rộng lòng mạch về mức bình thường và giữ cho lòng mạch không bị hẹp lại. Khi lòng mạch được mở thông, dòng máu được phục hồi lưu thông, các triệu chứng đau, mỏi chân khi đi bộ và đau khi nghỉ do thiếu máu sẽ giảm nhanh chóng. Các vết loét và vùng hoại tử sẽ hồi phục. Tuy nhiên phần hoại tử nặng không thể hồi phục được bắt buộc phải cắt bỏ. Chi phí để điều trị bệnh lý này còn khá cao, tuy nhiên bảo hiểm y tế hiện nay có thể chi trả trung bình khoảng 50 - 70% tổng chi phí điều trị. Vì vậy, nếu bệnh nhân có bảo hiểm y tế sẽ giảm gánh nặng tài chính rất nhiều. Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0 Chuyển sao tặng cho thành viên x1 x5 x10 Hoặc nhập số sao Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới, thuật ngữ chuyên môn gọi là huyết khối tĩnh mạch chi dưới, là tình trạng tắc nghẽn tĩnh mạch chi dưới, vị trí thường ở các tĩnh mạch sâu vùng cẳng chân, vùng đùi, khoeo, tĩnh mạch chậu do sự hình thành cục máu đông gây lấp lòng mạch. Minh họa hình ảnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới là một bệnh lý nguy hiểm vì triệu chứng có thể gây nhầm lẫn hoặc bỏ sót, dẫn đến chẩn đoán và điều trị muộn, tạo điều kiện cho cục máu đông di chuyển về tim, lên động mạch phổi gây thuyên tắc phổi. Hàng năm tại Hoa Kỳ có khoảng 50,000 bệnh nhân tử vong do thuyên tắc phổi. Có tới 10% bệnh nhân tử vong trong bệnh viện liên quan đến thuyên tắc phổi. Về lâu dài, viêm tắc tĩnh mạch sâu có thể phá huỷ các van tĩnh mạch, gây ra các hậu quả như phù, loét chi dưới… gọi là bệnh lý hậu huyết khối tĩnh mạch, ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của người bệnh. 60% bệnh nhân viêm tắc TM chi dưới có thể bị bệnh lý hậu huyết khối này, nếu không được điều trị và theo dõi đúng cách. Khi cục máu đông gây lấp lòng tĩnh mạch, sẽ cản trở máu từ chi dưới trở về tim. Từ đó gây ra tình trạng ứ trệ trong lòng mạch, thoát dịch ra ngoài lòng mạch, giải phóng các yếu tố viêm. Bên chân bị tắc sẽ có hiện tượng sưng, nóng, đỏ, đau, khi sờ vào thấy cảm giác căng, tăng trương lực cơ, so với chân bên lành. Tuy nhiên, giai đoạn đầu của bệnh sẽ rất khó phát hiện vì biểu hiện sưng đau đều kín đáo. Vì vậy, để chẩn đoán sớm huyết khối tĩnh mạch chi dưới, cần chú ý phát hiện Dấu hiệu Homans là dấu hiệu sớm phát hiện viêm tắc tĩnh mạch bệnh nhân đau khi hơi gấp mu bàn chân. Các yếu tố nguy cơ, hay hoàn cảnh thuận lợi dẫn đến sự hình thành huyết khối tĩnh mạch. Đau khi hơi gấp mua bàn chân có thể gợi ý bệnh lý viêm tắc tĩnh mạch chi dấu hiệu Homans Các yếu tố nguy cơ và nguyên nhân gây ra viêm tắc tĩnh mạch Sự hình thành huyết khối trong lòng tĩnh mạch thường do nhiều yếu tố phối hợp, trong đó 3 yếu tố chính được Virchow mô tả là tình trạng tăng đông, ứ trệ tuần hoàn tĩnh mạch và sự tổn thương của nội mạc thành tĩnh mạch. Các yếu tố thuận lợi của bệnh viêm tắc tĩnh mạch Tuổi tuổi càng cao, càng dễ bị huyết khối tĩnh mạch. Béo phì. Giãn và suy tĩnh mạch chi dưới. Bất động kéo dài, nằm nhiều, ít đi lại. Tiêm chích ma tuý. Sau dùng một số thuốc như thuốc tránh thai, thuốc điều trị ung thư… Nguyên nhân ngoại khoa Các phẫu thuật chấn thương chỉnh hình chi dưới như thay khớp háng, khớp gối…, các phẫu thuật vùng ổ bụng, tiểu khung là những phẫu thuật có nguy cơ cao bị viêm tắc huyết khối tĩnh mạch. Nguyên nhân sản khoa viêm tắc huyết khối tĩnh mạch dễ xảy ra ở phụ nữ mang thai do thay đổi hormone, hoặc do thai lớn chèn ép vào tĩnh mạch, sau nạo phá thai, sau mổ, sau đẻ do kiêng khem, bất động quá mức. Nguyên nhân nội khoa bệnh nhân nằm điều trị trong khoa hồi sức tích cực, suy tim nặng, đợt cấp của bệnh phổi mạn tính, tai biến mạch máu não, nhiễm trùng nặng, ung thư … phải bất động kéo dài, là những nguyên nhân dễ dẫn đến hình thành huyết khối tĩnh mạch. Bệnh lý tăng đông máu có thể là bẩm sinh do thiếu hụt một số yếu tố dẫn đến tình trạng tăng đông như thiếu hụt protein C, protein S, antithrombin III, yếu tố V Leyden… hoặc mắc phải như trong hội chứng kháng phospholipid, hội chứng thận hư, xơ gan… Sau giai đoạn mang thai phụ nữ có nguy cơ cao mắc viêm tắc tĩnh mạch chi dưới Chẩn đoán bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới Biểu hiện lâm sàng tại chân bị huyết khối tĩnh mạch là các dấu hiệu sưng, nóng, đỏ, đau, tăng trương lực cơ. Tuy nhiên, vì triệu chứng có thể không rõ ràng, cần đặc biệt chú ý đến hoàn cảnh thuận lợi làm tăng nguy cơ tắc tĩnh mạch chi dưới. Cần phân biệt viêm tắc tĩnh mạch chi dưới với một số nguyên nhân khác cũng làm chân sưng to, đau Tụ máu trong cơ thường xuất hiện sau chấn thương Vỡ kén hoạt dịch sau khoeo chân thường ở bệnh nhân có tuổi, thoái hoá khớp. Chẩn đoán chính xác cục máu đông trong lòng tĩnh mạch khá đơn giản. Chỉ cần sử dụng một máy siêu âm có thể dễ dàng phát hiện cục máu đông trong lòng tĩnh mạch chi dưới, làm tĩnh mạch ấn không xẹp. Việc chẩn đoán sâu hơn, ví dụ tìm nguyên nhân bẩm sinh do rối loạn đông máu, hoặc nguyên nhân khác ung thư, bệnh mạn tính, hay chẩn đoán biến chứng thuyên tắc phổi, thường đòi hỏi được thực hiện ở cơ sở chuyên khoa tim mạch, có sẵn các thăm dò cận lâm sàng cần thiết phục vụ chẩn đoán. Điều trị bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới Mục tiêu hàng đầu của điều trị viêm tắc tĩnh mạch là ngăn ngừa sự lan lên của cục máu đông, để ngăn chặn biến cố thuyên tắc mạch phổi. Mục tiêu lâu dài là tránh nguy cơ tái phát huyết khối tĩnh mạch chi dưới, giảm tối đa nguy cơ bệnh lý suy tĩnh mạch sâu hậu huyết khối. Các biện pháp được sử dụng bao gồm. Thuốc chống đông Có hai loại Thuốc chống đông đường truyền tĩnh mạch hay tiêm dưới da, là heparin và heparin trọng lượng phân tử thấp. Heparrin TLPT thấp được sử dụng phổ biến hơn, trong môi trường bệnh viện hoặc tại nhà với một số bệnh nhân thuốc được tiêm dưới da bụng, do nhân viên y tế hoặc người nhà bệnh nhân đã được huấn luyện thực hiện, trong vòng 5 – 7 ngày, và gối với một thuốc chống đông đường uống gọi là kháng vitamin K, dùng lâu dài. Băng chun áp lực hay tất áp lực y tế Có tính đàn hồi cao và áp lực từ 20 – 30 mmHg khi đeo, giúp duy trì một áp lực thường xuyên lên tĩnh mạch chi dưới, một mặt góp phần làm ly giải cục máu đông, giảm nguy cơ di chuyển của cục máu đông, mặt khác, ngăn ngừa biến chứng suy tĩnh mạch mạn tính. Chế độ vận động, dinh dưỡng Thông thường bệnh nhân viêm tắc tĩnh mạch chi dưới khi mới điều trị được yêu cầu nằm tại giường, nhưng chỉ sau 24 – 48 giờ và được đeo tất hay băng áp lực, bệnh nhân được khuyến cáo dậy đi lại nhẹ nhàng. Về dinh dưỡng, người bệnh thường được khuyên tránh các thức ăn có thể gây táo bón. Điều quan trọng là chế độ ăn phù hợp với chế độ điều trị thuốc chống đông, hạn chế các thức ăn có khả năng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc dùng thuốc. Trong thời gian dùng thuốc chống đông, người bệnh được khuyên tránh các hoạt động thể lực mạnh, có nguy cơ gây chảy máu, tránh sử dụng các thuốc giảm đau chống viêm không steroid, aspirin, thuốc đông y do làm tăng nguy cơ chảy máu. Thuốc chống đông máu được chỉ định trong trường hợp viêm tắc tĩnh mạch chi dưới Thời gian điều trị Trong thời gian điều trị thuốc chống đông đường tiêm, bệnh nhân sẽ phải nằm viện, trung bình 7 – 10 ngày, nếu như không có biến chứng thuyên tắc phổi. Khi chuyển sang thuốc chống đông đường uống, bệnh nhân sẽ được theo dõi và điều trị ngoại trú. Hiệu quả điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K đường uống được đánh giá dựa vào chỉ số INR, yêu cầu chỉ số này từ 2 – 3. Thông thường INR được xét nghiệm mỗi tháng 1 lần. INR dưới 2 chứng tỏ thuốc chống đông không có hiệu quả, INR trên 3 chỉ ra sự quá liều thuốc, có nguy cơ gây biến chứng chảy máu. Thời gian điều trị thuốc phụ thuộc vào nguyên nhân, tối thiểu là 3 tháng nếu viêm tắc tĩnh mạch có yếu tố nguy cơ rõ ràng và tạm thời, trên 12 tháng, thậm chí cả đời, nếu không rõ nguyên nhân, viêm tắc tĩnh mạch tái phát, hoặc do nguyên nhân rối loạn đông máu. Thời gian đeo tất hay băng áp lực được khuyến cáo tổi thiểu là 2 năm, tốt nhất là kéo dài, để tránh nguy cơ suy tĩnh mạch. Phòng tránh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới Những người có nguy cơ cao bị viêm tắc tĩnh mạch như sau phẫu thuật vùng tiểu khung, chấn thương chỉnh hình …, bị các bệnh lý nội khoa nặng nề buộc phải nằm bất động kéo dài … có chỉ định dùng thuốc chống đông dự phòng. Gia đình của họ đươc khuyên phải thường xuyên thay đổi tư thế, xoa bóp chân, có thể đeo tất áp lực dự phòng huyết khối ở chân cho bệnh nhân. Phụ nữ có chỉ định điều trị hormone, dùng thuốc tránh thai, cần tham khảo bác sĩ điều trị và khám định kỳ. Phụ nữ có thai đặc biệt ở những tháng cuối, được khuyên mang tất áp lực, gác cao chân để tránh ứ trệ tuần hoàn. Sau đẻ, sau mổ nên dậy vận động sớm, xoa bóp chân tay, tránh nằm một chỗ. Người béo phì, có lối sống tĩnh tại được tư vấn giảm cân, tăng cường tập thể dục thể thao để cải thiện hoạt động bơm của cơ. Khi đi ô tô, máy bay đường dài, để tránh nguy cơ tắc tĩnh mạch, nên uống nhiều nước, co duỗi chân tay, đứng dậy đi lại sau mỗi 1 – 2 tiếng nếu có thể, ngoài ra, có thể đeo tất áp lực phòng chống tắc mạch. CNTTCBTG – BV Bạch Mai

tắc động mạch chi dưới